Năm 1986 tôi rời Thái Lan. Nơi tôi đến đầu tiên là châu Âu. Ý định của tôi là tới nơi nào có thiên nhiên và chưa có đạo Phật. Một đệ tử giúp tôi làm visa và các thủ tục đi lại. Chúng tôi quyết định sang Phần Lan trước vì họ ít dân, gần Nga, và chưa có Phật giáo.
Tôi không đi một mình. Hai sa-di và hai Phật tử đi cùng với tôi. Hai Phật tử này là hai phụ nữ trung niên đã theo tôi nhiều năm. Họ đi theo để giúp việc đi lại ăn uống. Giới luật của Thái Lan không cho phép chư tăng tự nấu ăn hay tự mua bán mà chỉ được ăn đồ khất thực hoặc cúng dường. Nhưng chúng tôi biết châu Âu không có văn hóa đặt bát, cúng dường chư tăng. Thế nên chúng tôi phải có Phật tử đi cùng để hỗ trợ. Mà để một phụ nữ đi cùng chúng tôi cũng không được. Sẽ điều tiếng cho cả vị tăng lẫn người phụ nữ. Cho nên phải có hai phụ nữ đi cùng.
Từ Bangkok, chúng tôi tới Helsinky. Khi làm thủ tục hải quan, họ phát hiện tôi đã bị sốt rét nhiều lần ở Thái. Lúc đó Phần Lan không có bệnh sốt rét. Họ cho tôi vào viện một thời gian. Trong bệnh viện, tôi nói chuyện với các bác sĩ và y tá về đạo Phật. Họ hỏi tôi về thiền. Tôi dạy họ thiền. Họ rất hứng thú.
Từ Helsinky, chúng tôi đi ô tô về phía Bắc Phần Lan, tới một làng gần Lepland, không xa người Eskimo. Chúng tôi thuê một căn nhà gỗ gần hồ. Tôi và hai sa-di ở trong nhà này. Hai Phật tử ở trang trại gần đó.
Hàng ngày, tôi vẫn giữ thời khóa như ở Thái, trừ việc khất thực. Tôi vẫn dậy trước mặt trời mọc để ngồi thiền; rồi tụng kinh lúc 6 giờ sáng; sau đó nói pháp và tỏa năng lượng cho chúng sinh Phần Lan và khắp nơi. Sau đó hai Phật tử mang đồ ăn cúng dường tới thì chúng tôi ăn sáng. Thường tôi không ăn, chỉ có hai sa-di ăn. Tôi vẫn chỉ ăn một bữa trưa; đến tối tôi uống chút sữa ấm pha mật ong.
Suốt ngày, tôi và hai sa-di đi bộ từ đầu làng đến cuối làng nói chuyện với người dân. Dân làng ở đây hiền lành, thân thiện. Lúc đầu, họ thấy chúng tôi là lạ; nhưng họ rất cởi mở bắt chuyện. Chừng một tháng sau, cả làng đã quen chúng tôi. Họ bắt đầu tìm hiểu về đạo Phật và đời sống một người xuất gia. Rồi họ bắt đầu mời chúng tôi tới nhà thọ trai và chia sẻ pháp. Thời gian này rất an lạc. Tôi viết cuốn thơ “Trái tim Không” lúc sống ở đây.
Khi tôi rời Thái, trời đang là mùa hè, nhiệt độ có khi hơn 40 độ C. Nhưng ở Phần Lan, kể cả mùa hè thì trời vẫn lạnh. Đến tháng Chín, nhiệt độ thường khoảng 10 độ C vào ban ngày và xuống dưới 0 độ vào ban đêm. Có tuyết nữa. Một buổi sáng sớm, tôi ngồi trong nhà nhìn qua cửa sổ ra trời tuyết. Bên ngoài rất lạnh nhưng chim vẫn hót và hoa vẫn nở. Tôi thấy xấu hổ là mình đang tự nuông chiều cảm giác an ấm của bản thân. Thế là tôi bỏ y, đi bộ ra hồ. Hồ trong vắt, nước lạnh ngắt, nhìn rõ những con cá thong thả bơi. Cái lạnh có vẻ không hề làm chúng bận tâm. Tôi vục hai tay xuống hồ vốc nước lên miệng. Tôi cứ đứng nguyên đó một lúc lâu để cảm nhận cái lạnh ở miệng và tay.
Thật ra các cảm giác mà chúng ta cảm thấy trên thân thể – nóng, lạnh, đau, buốt, rát, bỏng, nhức – chỉ là cảm giác thuần khiết. Khổ đến khi ta gán ý nghĩa vào các cảm giác đó rồi tin vào ý nghĩa mình tự gán. Khi nhiệt độ là 10 độ C, nó chỉ là 10 độ C. Bản thân 10 độ C không có ý nghĩa là cao hay thấp, nóng hay lạnh, đáng thích hay không. Nhưng nếu ta nghĩ “ôi, lạnh quá đi” thì ta sẽ thấy rất lạnh và khổ sở. Ta sẽ thấy không thể chịu nổi. Nhưng nếu ta không gán ý nghĩa nào, thì nó chỉ là nó. Nó là một cảm giác đơn thuần của 10 độ C.
Mùi vị thức ăn cũng vậy. Nếu ta nghĩ cái gì ngon ta sẽ thích ăn thật nhiều. Cái gì không ngon, ta sẽ thấy không thể ăn nổi. Nhưng thật sự thì chính mùi vị không hề có ý nghĩa nào trong tự thân nó. Tự nó không ngon hay không ngon. Mùi chỉ là mùi. Vị chỉ là vị. Nó không là cái gì cả. Cái “ngon” và “dở” là do ta nghĩ ra và thêm vào. Chúng ta nghĩ ra và phủ thêm ý nghĩa lên tất cả mọi thứ trên đời; rồi sống trong các ý nghĩa và khổ vì các ý nghĩa. Sự thật thì mọi thứ hiện hữu hoàn toàn thuần khiết. Chúng không tự có ý nghĩa nào cả.
Năm đó, tôi có nhiều trải nghiệm về lạnh, băng, tuyết, những thứ không có ở Thái Lan. Học đối mặt với điều kiện khắc nghiệt cũng tốt bởi vì các trải nghiệm này giúp ta hiểu rõ hơn bản chất của thân và tâm. Pháp hiển lộ trong tất cả những khoảnh khắc mà tâm tỉnh giác trước các hiện tượng đang thị hiện. Có tỉnh giác thì có an lạc đích thực.
Nhưng nói rốt ráo thì không cần phải luyện để cơ thể không cảm thấy nóng lạnh.
Như bây giờ, ngày nào tôi cũng phải tắm nước nóng. Từ sau tai nạn ô tô năm 2000, tôi không thể tắm nước lạnh được nữa. Cũng không sao cả.
Sự thật là rèn cho thân thể vượt qua các điều kiện khắc nghiệt không trực thẳng với giác ngộ, giải thoát. Hai thứ này khác nhau.
Tôi ở Phần Lan khoảng 3 tháng. Từ Phần Lan, tôi sang Yugoslavia (Nam Tư cũ). Chúng tôi thuê một căn nhà nhỏ trong làng Mala Montasina. Sau nhà có một khu vườn lớn trồng nho, táo, mơ, đào, các loại quả. Căn nhà cũng có một cái giếng. Hàng ngày, kéo nước giếng trở thành môn thể dục của tôi và hai sa-di.
Vào mùa đông, tuyết phủ trắng làng. Cả làng hoàn toàn yên ắng, hầu như không tiếng động. Mọi người ở trong nhà tránh rét. Nhưng chúng tôi thì vẫn đi bộ khắp làng. Ngập tuyết chúng tôi vẫn đi. Tôi thích đi thăm mọi người. Dân ở đây sống rất đơn giản. Họ hiền hậu. Tôi thích đời sống như vậy, cảm thấy nó rất quen thuộc với mình. Tôi đi các nhà, hỏi thăm cuộc sống của họ, hỏi thăm về văn hóa, rồi chia sẻ pháp. Cứ như vậy; chúng tôi dần biết cả làng. Khi tôi rời đi, dân làng tổ chức một bữa tiệc chia tay. Cả làng đều đến.
Trong khoảng 2 năm, tôi đi như vậy qua các nước châu Âu, mỗi nơi sống một thời gian ngắn để học hỏi văn hóa của họ, chia sẻ pháp, làm quen với mọi người, gửi năng lượng cho chúng sinh khắp nơi. Tôi tới Ý, Đức, Pháp, Hy Lạp, Đan Mạch. Ở nước nào tôi cũng học được những điều mới. Con người mỗi nơi có một văn hóa riêng, thói quen riêng, tư tưởng riêng, cách sống riêng. Thời gian thú vị nhất là khi ở trên đảo Atos với các tu sĩ Hy Lạp. Cả đảo chỉ có tu sĩ theo đạo Cơ đốc. Họ thậm chí không cho phép phụ nữ lên đảo. Các tu sĩ ở đây tu hành rất hà khắc, rất nghiêm mật. Tôi rất ấn tượng về họ.
Trên đảo Atos, tôi thấy một bức tượng Chúa Giê-su ôm bình bát, như thể là đi khất thực. Tôi chưa bao giờ thấy hình ảnh này ở bất kỳ đâu. Tôi nghĩ, à thì ra Chúa Giê-su cũng khất thực và ăn trong bình bát.
Hồi còn ở đảo Koh Mark, tôi đặt một bức vẽ Phật và một bức vẽ Chúa trên bàn thờ. Cao hơn một chút thì tôi treo một bức tranh trống trơn, chỉ có hào quang vàng nhạt. Tánh Không. Các bậc thầy của mọi tôn giáo đều chỉ tới Tánh Không. Tánh Không cũng còn được gọi là Niết Bàn. Tánh Không là mọi thứ; mọi thứ là Tánh Không. Các bậc giác ngộ đều dạy điều này. Nó vượt trên văn hóa riêng, đất nước riêng. Nó vượt trên tôn giáo riêng, niềm tin riêng. Nó vượt trên khổ đau và hạnh phúc. Kể cả hạnh phúc cũng không phải.
Tánh Không – sự thật của mọi hiện hữu – thì vượt trên cả hạnh phúc mà thế gian thường mong cầu.
Một thử thách
Cuối tháng Chín,
Năm 1986.
Tuyết phủ đầy mặt đất
Trắng phau, lấp lánh khắp nơi
Dưới ánh mặt trời.
Cuối buổi sáng một ngày
Lũ kiến và côn trùng nhỏ
Vẫn còn giấu mình đâu đó
Trong khi hoa dại trên đồng
Cố ló đầu trên tuyết trắng
Một ngày đông lạnh, vắng!
Ảm đạm làm sao!
Tôi ngồi bên lò sưởi cạnh cửa sổ đã lâu
Lặng im, biếng lười không muốn dậy
Này, những bông hoa dại!
Ta xấu hổ trước các ngươi!
Thế nên tôi đứng lên
Cởi tấm y dài đang mặc
Ép mình bước ra giá rét
Đạp trên mặt tuyết trắng ngần
Bước nhanh, bước nhanh
Tôi đi về hồ nước
Nhấc cái xô khỏi tuyết
Trong xô nước đã đóng băng
Tôi úp ngược xô
Gõ mạnh cho băng rụng.
Rồi cúi xuống bên hồ
Tôi vục đầy xô nước
Mặt nước hồ trong vắt
Nhìn rõ lũ cá đang bơi
Ah, những con cá nhỏ nhoi
Các ngươi sao bền bỉ!
Tôi vốc nước lên xúc miệng.
Miệng và tay buốt tê
Và hai chân tôi cũng thế.
Tôi rảo bước vội vào trong
Với xô nước vừa mới múc
Ngồi xuống bên ngọn lửa ấm
Nghĩ về những người Eskimo
Về lũ cá nhỏ và những bông hoa
Can trường làm sao! Tự thích nghi để tồn tại!
Liệu họ nghiễm nhiên coi thiên nhiên là vậy?
Hay thiên nhiên buộc họ phải uốn mình
Phải chịu đựng và chấp nhận để tồn sinh?
Tương đồng trong khác biệt
Con người khác biệt nhau bởi chủng tộc
Bởi bộ lạc, ngôn ngữ, đức tin
Bởi phong tục, truyền thống, thói quen
Mô hình chính trị, xã hội, và kinh tế.
Họ khác nhau về nơi sinh sống.
Nhưng tất cả con người có một điều giống
Là chung đặc tính người
Tốt hay xấu, trắng hay đen
Con người đều mong sinh sôi, hạnh phúc
Không ai mong đau khổ
Cũng không mong suy tàn
Phiền não nội tâm của họ cùng một loại
Tham, sân, và si.
Họ trải qua cùng vòng quay
Sinh, già, bệnh, chết.
Dẫu vậy họ vẫn luôn bám chặt
Vào của cải, địa vị, hạnh phúc và công danh
Những thứ tạo dựng nhằm ve vuốt bản thân
Để sống vượt lên trên
Cần trưởng dưỡng chánh niệm và tuệ giác
Cùng đức hạnh của từ bi.
Hướng về sự toàn hảo nội tâm
Và sự biến tan của cái ngã.
Chớ lơ là
Con chớ lơ là
Để mất đi chánh niệm
Hãy quán xét các đối tượng của nhận biết
Nhận rõ bản chất các đối tượng này
Chúng xuất hiện theo cách tự diễn, tự bày
Rồi lại tự ra đi, chỉ là như vậy.
Nhận ra thế, tâm sẽ không dính vào, không bám lấy.
Bất cứ đối tượng nào.
Tự do ngay cả khi nghịch pháp hiển bày.
Lòng tham
Một người có lòng tham
Cũng là người có thể xây phước đức
Bởi lòng tham hàm chứa mãnh lực
Thúc đẩy người đó tinh tấn tu hành
Nhưng rút cục họ sẽ phải vứt đi ngay cả phước lành
Không dính mắc dù tham hay phước.
Khi một người đạt sức mạnh tuệ và cái biết
Họ cũng phải vứt chúng đi
Dính bám bất cứ pháp nào cũng là ảo, là si.
Nếu một người say sưa pháp, họ sẽ bị ngộ pháp
Nếu họ còn mong trở thành bậc thầy lớn
Hoặc còn muốn tích tập thật nhiều
Họ sẽ chẳng có gì ngoài ảo tưởng đảo điên.