Từ tháng 4-2019 đến tháng 7-2019, tôi có may mắn sống ở chùa Sunnataram tại California với thiền sư Yantra Amaro. Đấy là lần đầu tiên tôi gặp thiền sư và biết về bậc thầy nổi tiếng Phật giáo Thái Lan đương đại. Cuốn sách này ra đời từ ba tháng tuyệt vời đó.
***
Nói cho đúng, nhân duyên của tôi và thiền sư Yantra đã bắt đầu vào một buổi chiều năm 2017. Ngày hôm đó, trong cuộc nói chuyện với một nhóm Phật tử Việt Nam, một vị tăng Thái Lan nhắc đến thiền sư Yantra như ví dụ về một bậc thầy giác ngộ của Phật giáo Thái Lan hiện đại. Thời điểm đó, tôi không hề biết gì về thiền sư, không biết trông thiền sư ra sao, ở đâu. Tôi chỉ đơn thuần nghe tên “Yantra.” Đêm đó, trong lúc ngủ, tôi thấy mình đi tới một ngôi chùa, bao quanh là những ngọn đồi thoai thoải. Trong chùa, tôi đứng dưới một gốc cây có những bông hoa lớn đỏ rực. Rồi có một người đến gặp tôi. Người này cao lớn, rất đẹp, tóc bạc trắng búi ra phía sau, râu trắng dài, như một ông tiên hay một đạo sĩ. Khi tỉnh dậy, tôi băn khoăn không biết vị thầy đó là ai. Chuyện rồi cũng qua đi.
Tháng 4-2019, ba sư cô người Thái và người Anh ở chùa Rombodhidharma thuộc tỉnh Loei, Thái Lan lên kế hoạch cùng tôi sang đảnh lễ thiền sư Yantra tại chùa của ngài ở California, Mỹ. Từ Thái, ba sư cô đã sang gặp thiền sư trước tôi hơn 1 tuần; trong lúc đó, tôi làm việc ở đại học South Carolina. Kế hoạch của tôi là sẽ đến thăm thiền sư khoảng 10 ngày rồi đi chơi với ba sư cô trước khi cùng về Thái. Vé máy bay của tôi đã đặt ngày về Thái là 30-4-2019.
Tối ngày 17-4-2019, tôi bay tới San Diego. Khi về đến chùa đã gần 11 giờ đêm. Chùa tối. Chư tăng đã đi ngủ. Tuy thế, phòng khách vẫn còn ánh đèn. Khi tôi kéo vali vào, thiền sư đang ngồi trên ghế. Ngài vẫn chờ. Thấy tôi, ngài quay ra mỉm cười:
- Chào tiến sĩ Việt. Rất vui được gặp con. Ta đã nghe về con rất nhiều.
Tôi bỏ rơi cái vali kéo, chạy lại quỳ xuống chân ngài lễ ba lễ. Khi tôi ngẩng lên, đối diện với tôi, trong ánh sáng mờ của căn phòng là một đôi mắt lấp lánh sáng, trong suốt không đáy, ở đó tỏa ra một tình thương mênh mông mà tôi chưa từng gặpở bất kỳ ai. Đây không phải một câu nói suông. Thực sự, cho đến thời điểm đó, tôi chưa gặp ai mà năng lượng từ bi tỏa ra rõ nét và trong suốt như thiền sư Yantra.
Thiền sư ngồi trên ghế, to lớn, vững chãi, với phong thái sư tử chúa, mái tóc dài bạc trắng được cột ra phía sau, hàng râu dài trắng cước. Ngài mặc một chiếc áo vải bông dài tay đã cũ màu cam nhạt bên trong; bên ngoài là một chiếc áo tăng ngắn đắp chéo qua vai màu xanh lá cây đậm. Tôi ngập trong cảm giác thân thuộc không thể diễn tả.
Buổi sáng hôm sau, trong ánh mặt trời, tôi mới nhìn rõ. Chùa của thiền sư nằm trên đỉnh đồi, giữa trùng điệp những quả đồi thấp phủ xanh của vùng ngoại ô San Diego. Căn phòng mà sau đó thiền sư xếp cho tôi ở – một căn phòng nhỏ, riêng biệt ở góc chùa, nơi mà thiền sư nói “con có thể về đây ở bất cứ lúc nào” – có một gốc cây đã già, sần sùi, nở đầy hoa đỏ rực. Những cánh hoa nhuộm đỏ gốc và bay đầy hiên trước phòng tôi suốt thời gian tôi ở đây. Một buổi sớm, trong lúc lơ đãng quét những cánh hoa đã rơi trong đêm, phủ đỏ hàng hiên gỗ lớn trước phòng, tôi chợt nhận ra đây chính là ngôi chùa hoa đỏ có vị thầy tóc bạc mà tôi đã thấy trong giấc mơ năm 2017. Trí thường chậm hơn tâm vậy đó.
***
Trong những ngày sau đó, thiền sư Yantra đưa tôi và ba sư cô đi chơi khắp nơi. Ngài hầu như không hề nói pháp. Mỗi buổi sáng, khi từ phòng riêng đi xuống, ngài chỉ mỉm cười, hỏi chúng tôi: “Các con ngủ có ngon không? Hôm nay chúng ta sẽ tới một nhà hàng Thái ăn trưa vì chủ nhà hàng muốn cúng dường bữa trưa cho chúng ta. Sau đó ta sẽ đưa các con đi chơi.” Trong 10 ngày, chúng tôi đã đi thọ thực ở 10 nhà hàng Thái khác nhau khắp khu vực San Diego – Los Angeles. Mỗi lần chúng tôi đến, chủ nhà hàng và toàn thể gia đình họ đều hân hoan ra đón, dập đầu xuống đất đảnh lễ, có khi đặt đầu rất lâu trên bàn chân ngài, kể cả khi nhà hàng của họ đầy thực khách Mỹ, vốn lạ lẫm trước một hình ảnh như thế. Còn chỗ “đi chơi” mà thiền sư dẫn chúng tôi đi thì hôm là cầu cảng San Diego, hôm thì lên đỉnh đồi Loma, hôm thì ra bãi biển La Jolla. Ngày nào, chúng tôi cũng ra khỏi nhà khoảng 9 giờ sáng trên 2-3 xe ô tô và về đến nhà chừng 6 giờ tối, có khi muộn hơn. Qua trưa, đầu chiều là các sư cô và các vị tăng đi cùng đều bắt đầu mệt, có khi xin về trước, nhưng thiền sư thì vẫn cười tươi, không hề có bất cứ biểu hiện mệt mỏi nào. Bề ngoài, trông thiền sư chỉ như một ông già thảnh thơi tản bộ; nhưng tôi ngờ rằng thiền sư làm nhiều hơn những gì mắt thường thấy được. Ít nhất là, sau này tôi mới biết, sau một tai nạn xe hơi thảm khốc năm 2000, thiền sư đã phải thay toàn bộ khớp háng bằng titan và không thể đứng, ngồi, hay đi lâu. Nhưng khi đưa chúng tôi đi chơi, chưa bao giờ tôi thấy thiền sư tỏ ra mệt.
Một buổi trưa, chúng tôi lại ăn trưa tại một nhà hàng Thái theo lời mời. Chủ nhà hàng là một cụ già ngoài 80 tuổi, vốn đã theo thiền sư từ lúc cụ còn là một cô gái trẻ, sống trong một ngôi làng ở một tỉnh lẻ nào đó của nước Thái, và thấy thiền sư chân đất hành cước ngang qua làng. Lúc đó, thiền sư Yantra mới ngoài 20 và mới xuất gia. Tuy thế, vị sư trẻ đã toát ra điều gì khác lạ, khiến cô gái và người làng tới dâng thức ăn, rồi dõi theo thiền sư sau khi thiền sư rời làng, và còn tiếp tục dõi theo suốt những năm sau này khi thiền sư thành vị thầy nổi tiếng khắp nước Thái. Cụ già nay đã ngồi xe lăn, vẫn cố gắng đảnh lễ thiền sư và cầm hai tay bàn tay ngài với tất cả sự thương kính sâu thẳm. Như thể đời này, đời sau, và vô lượng đời kiếp nữa, dù thiền sư ở đâu, trong hình tướng nào, nếu gặp lại, tâm thức họ sẽ lại nhận ra thiền sư và lại một lòng theo sự dẫn dắt của ngài. Tất cả con cháu cụ cũng vậy.
Cái cảnh tượng này, như những cảnh tượng tôi chứng kiến từ hôm đầu đến đây, lại khiến nước mắt tôi chảy. Sự thật là, từ hôm gặp thiền sư, những lúc ngồi trên ô tô với ngài – trong lúc ngài nói chuyện tiếng Thái với các sư cô ở hàng ghế trên – nước mắt tôi cứ tự nhiên ứa ra, chảy thành dòng khiến tôi phải lén lấy khăn lau đi. Một cánh cửa xuống một cái giếng sâu nào đó mà tôi thậm chí không biết là mình có hình như đã được mở ra, từ đó trào lên một dòng nước mà tôi lần đầu nếm được. Một thứ nước ngọt, mát, trong, mà hình như cuối cùng đã chữa lành những vết thương sâu nhất và gột rửa những nghi ngờ, những thói quen tự cản trở bản thân vốn đã tích lũy không biết tự bao giờ. Tôi bắt đầu hiểu những câu chuyện đã đọc trong kinh sách Phật giáo: vào kiếp đó… kiếp đó…., khi một vị Bồ Tát, hoặc chính Đức Phật Thích Ca, còn là một con rắn, một người phụ nữ phá thai, một trưởng giả keo kiệt, hay thậm chí đang ở trong địa ngục, và đã gặp một bậc giác ngộ, và chính nhờ sự gặp gỡ này, ở kiếp đó, họ đã phát tâm Bồ Đề và chuyển hóa vĩnh viễn về phía ánh sáng.
Ngay buổi tối thứ hai sau khi đến chùa, tôi bị một sự thôi thúc lạ lùng là phải kể với thiền sư việc cách đây 9 năm, tôi lần đầu tiên “gặp ma” và sự kiện đó khiến tôi, sau 30 năm sống như một người vô thần chỉ tin vào khoa học, đã bắt đầu tìm hiểu về đạo Phật. Tuy thế, tôi đã phải sống 3 năm trong tột cùng sợ hãi sau lần gặp ma đó bởi vì tôi không hiểu “con ma” đó và còn những con ma nào nữa “theo” tôi làm gì, hay là tôi bị tâm thần? Đến nay, nỗi sợ ma đã không còn nhưng tôi biết hạt mầm sợ hãi và mầm đau khổ nói chung – dù là sợ chết, sợ quyền lực, sợ nhục, sợ cái vô hình – thì chưa hết hẳn. Chính vì còn loay hoay đương đầu với cái mầm khổ vẫn thỉnh thoảng nảy cành đâm lá này mà trong những năm qua, tôi đã từ Mỹ về chùa ở Việt Nam, đi Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc,… rồi sang Thái Lan sống trong chùa để giải quyết cho ra ngọn ngành… và rồi tôi đã ở đây, trước mặt thiền sư. Trong lúc tôi kể, thiền sư lặng lẽ nghe, như một người cha nghe đứa con gái 5 tuổi bé bỏng của mình kể lại giấc mơ đã khiến nó hãi hùng đêm qua, rồi ngài mỉm cười, nhìn sâu vào mắt tôi:
- Nó không thật đâu con. Mọi sợ hãi, mọi trạng thái tâm đều không có ý nghĩa nào cả. Nó qua rồi.
Chỉ một vài lời đó, hạt mầm sợ kia được bứng bật.
Tôi vẫn chưa thể hiểu. Cái gì trong sự hiện diện của một con người lại có thể mang lại cho người khác sự thương kính và chuyển hóa sâu thẳm như vậy? Cái gì khiến thiền sư có năng lượng gột rửa phiền não mà tất cả những ai tới gần ngài đều có thể cảm nhận rõ nét, như ta nghiễm nhiên mát dịu khi đến ngồi dưới một bóng cổ thụ xum xuê.
Sau buổi chiều gặp cụ già đã theo thiền sư từ năm 20 tuổi, khi ngồi một mình với thiền sư trong phòng khách, tôi hỏi thiền sư – mà tôi gọi là “Phra Ajahn” tức “sư phụ” giống tất cả mọi người trong chùa:
- Sư phụ, sư phụ cảm thấy thế nào khi có người đã theo sư phụ đến 30, 40 năm, từ lúc họ còn là một cô gái trẻ và đến giờ họ đã sắp ra đi?
- Bình thường mà con – thiền sư cười.
- Sư phụ không thấy đó là gánh nặng ạ?
- Không.
- Sư phụ cảm thấy thế nào khi mọi người đến với sư phụ?
- Ta thấy tất cả đều là con cháu của mình. Là gia đình của mình.
Câu trả lời đơn giản – sự đơn giản chỉ đến từ những người đã làm điều họ nói, chỉ nói điều họ làm, rõ biết tường tận điều họ nói, và có thể nói rõ điều họ đã làm. Sự đơn giản hàm chứa sức nặng của vô lượng những khoảnh khắc sống thật, làm thật, và hy sinh bản thân thật. Nó khiến tôi rúng động.
Sự thật, tôi rất ích kỷ. Đời tôi cho đến lúc đó sợ nhất là có người dính bám vào mình, dù theo bất cứ cách nào. Tôi không muốn bố mẹ anh chị em ruột của tôi dính bám vào tôi – theo cách “quan tâm”. Tôi không muốn bạn bè, đồng nghiệp dính bám vào tôi – theo cách phải “giữ quan hệ”. Khi tôi lấy chồng trước đây, tôi thậm chí cũng không muốn chồng tôi phải chăm sóc, che chở hay cảm thấy có bổn phận đặc biệt với tôi. Tôi thấy không cần ai và không muốn ai cần mình. Cái ý nghĩ người nào đó theo mình 30-40 năm, nương tựa đời họ vào mình, làm tôi sợ. Thực sự, tôi không làm hại ai nhưng cũng không giữ kết nối đích thực với ai. Tôi thậm chí không gắn kết cả với chính mình.
Nhưng không kết nối thì cũng có nghĩa là bạn không bao giờ có cơ hội thực sự giúp đỡ, chấm dứt khổ đau cho bất cứ ai. Bạn không chạm tới lõi của họ.
Như thiền sư Yantra sẽ lặng lẽ dạy cho tôi bằng sự hiện diện của ngài, kết nối không có nghĩa là ràng buộc. Chạm tới không có nghĩa là xâm phạm tự do của nhau. Sự thật là chúng ta đã đang hiện hữu, đang tồn tại cùng nhau rồi, cho nên chúng ta đã đang kết nối sẵn rồi. Câu hỏi là: bạn sẽ kết nối thế nào? Sự hiện hữu, sự tồn tại của bạn mang lại sự giải tỏa và tự do cho người khác, hay nó mang lại thêm gánh nặng, ảo tưởng, và rối ren?
***
Cứ như thế, từng ngày, tôi bắt đầu biết về thiền sư Yantra; tức là biết về tâm ngài trước khi biết sự kiện cuộc đời ngài. Cho đến một buổi tối, đệ tử của ngài đưa cho tôi một cuốn sách tiếng Anh mỏng có tựa đề “Tiểu sử thiền sư Yantra Amaro”. Cuốn sách kể vắn tắt rằng thiền sư sinh năm 1951 ở miền nam Thái Lan. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng Bangkok, ngài thấy nhàm chán cuộc đời thế tục nên đã đến đảo Ko Samet để tự tu hành, dưới hình tướng một đạo sĩ. Ngài hành thiền theo phương pháp chánh niệm hơi thở, ăn chay, chỉ ăn một bữa mỗi ngày, giữ giới luật như một vị tăng nhưng vẫn để tóc dài. Ngài dành nhiều tháng sống trong một cái hang với các xác chết như một pháp tu. Sau 3 năm làm đạo sĩ, các năng lực thần thông đã khai mở, ngài xuất gia. Chỉ trong vòng vài năm sau khi xuất gia, dù vẫn là một vị tăng trẻ, ngài đã nổi tiếng là một bậc chân tu. Suốt 12 năm, ngài đi bộ chân đất khắp nước Thái. Sau khi đi khắp nước Thái, thiền sư rời Thái Lan, dành 5 năm đi các nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ để tìm hiểu những nền văn hóa này và chia sẻ pháp. Trở về Thái sau 5 năm, tiếng tăm về đạo hạnh của ngài lan rộng. Người ta nói về chuyện cứu độ của thiền sư với người bệnh, người nghèo, người sa ngã, và những phước lành mà thiền sư mang lại. Ngày sinh nhật của thiền sư, cả trăm ngàn Phật tử tới để được đặt bát khi ngài đi khất thực buổi sáng…
Cuốn tiểu sử dừng lại ở năm 1994, tức là 25 năm trước.
***
Tháng Tư là mùa xuân. San Diego và vùng xung quanh bước vào thời kỳ rực rỡ nhất năm. Hoa thuốc phiện đồng loạt nở, biến những quả đồi thành một bức tranh Monet khổng lồ, với từng triền đồi vàng, đỏ, da cam, tím, xanh. Hoa cúc, hoa tulip, hoa hồng… hoan hỉ vươn lên khắp nơi. Thời tiết chưa nóng nhưng cũng không còn lạnh, lý tưởng để ra ngoài. Tôi và ba sư cô – như bốn cô con gái nhỏ – ngày nào cũng được thiền sư đưa đi chơi khắp nơi. Ranh giới giữa tu và sống, giữa chùa và toàn pháp giới bị xóa nhòa.
Một buổi chiều, khi đưa chúng tôi vào trung tâm San Diego chơi, thiền sư chỉ một tòa nhà cao:
- Kia là cục xuất nhập cảnh San Diego. Ta từng bị đi tù ở trên nóc tòa nhà đó. Đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời mà ta không được đắp y.
Đấy là lần đầu tiên tôi biết thiền sư từng phải ở tù. Trước đó, tôi đã luôn mặc định thiền sư Yantra sang Mỹ giống các bậc thầy lớn từ Trung Quốc, Ấn Độ, hay Tây Tạng chủ động sang Mỹ để mở rộng phạm vi hoằng pháp. Hóa ra không phải. Ngài đã buộc phải rời Thái Lan vào đầu thập kỷ 1990 do những kiếp nạn lạ lùng. Sự thật là trong 25 năm ở Mỹ, cũng như những năm ở Thái, thiền sư Yantra trải qua những kiếp nạn mà ít người phải trải qua chỉ trong một đời. Tuy nhiên tất cả các sách vở về thiền sư đều dừng ở thời điểm ngài rời Thái Lan.
***
Vào khoảnh khắc được thiền sư chỉ cho nhà tù ở cảng San Diego, tôi biết ai đó nên ghi lại cuộc đời thiền sư, đặc biệt là khoảng thời gian 25 năm tại Mỹ mà hầu như không ai biết. Tối hôm đó, khi tôi bày tỏ ý định mình muốn làm việc này, thiền sư mỉm cười gật đầu. Trong bữa trưa ngày hôm sau, tôi xin lỗi ba sư cô rằng tôi sẽ không trở về Thái cùng các sư cô như kế hoạch mà sẽ ở lại Sunnataram cho đến khi làm xong việc. Nghe tôi nói xong, sư cô Geg ràn rụa nước mắt, chắp tay:
- Lành thay, lành thay, Việt. Xin tùy hỉ công đức của em. Đây không phải là nước mắt của tôi đâu. Đây là nước mắt mừng vui của chúng sinh đấy. Họ thương nhớ thiền sư rất nhiều.
Vì thế mà, thay vì ở với thiền sư 10 ngày như kế hoạch ban đầu, tôi đã ở lại Mỹ thêm 3 tháng. Trong 3 tháng đó, thiền sư ở chùa khoảng 2 tuần đến 1 tháng, rồi lại trở về nơi ở một mình trong rừng. Còn tôi cũng theo công việc phải đi Washington DC, Chicago, South Carolina, và Sacramento, nhưng rồi sẽ về chùa. Tôi sắp xếp lịch để có mặt ở chùa trong tất cả khoảng thời gian mà thiền sư từ rừng về chùa.
Vào các buổi tối cùng ở chùa, khi chư tăng đã về phòng nghỉ, tôi ngồi với thiền sư Yantra bên chiếc bàn lớn trong phòng khách. Buổi nói chuyện luôn bắt đầu bằng nụ cười quen thuộc của thiền sư:
- Con có thể hỏi ta bất cứ câu hỏi nào con muốn hỏi. Bất cứ câu hỏi nào.
Tôi thực sự đã hỏi rất nhiều, rất chi tiết, rất thẳng, với tư cách một người viết, một người làm nghiên cứu, một người tu mới, nhưng trước hết là tư cách một sự sống trân trọng một sự sống lớn khác. Tôi đã hỏi chuyện thiền sư như thể đem vắt đại dương thành một cốc nước, cho người khác cũng có cơ hội thưởng thức.
Trước khi kết thúc mỗi buổi tối, bao giờ thiền sư cũng nói với tôi:
- Nào, bây giờ chúng ta hãy ngồi với nhau một vài phút. Con hãy ngồi theo cách nào con thoải mái nhất, không cần phải kiết già. Con có thể nhắm mắt hay mở mắt tùy con. Hãy hít một vài hơi thở dài. Thật thoải mái. Bây giờ, cứ thở bình thường… Thản nhiên quan sát hơi thở… Hãy để tâm con tự do trước tất cả mọi thứ….
Chúng tôi ngồi như vậy có khi 10 phút, 15 phút, có khi lâu hơn, cho đến khi thiền sư lên tiếng:
- Giờ con hãy thở một vài hơi dài… Hãy gửi tình yêu thương và sự an bình tới cha mẹ con, tới những người thầy, tới tất cả chúng sinh. Hãy nghĩ đến họ như bạn bè, như gia đình của ta, đều cùng chung sinh lão bệnh tử. Con hãy nguyện cho tất cả đều được mạnh khỏe, hạnh phúc, an bình, chấm dứt mọi hận thù và đau khổ. Nguyện mọi công đức của chúng ta đều được chia cho khắp chúng sinh. Con hãy tỏa lòng từ bi của con ra tất cả các hướng quanh mình. Giờ thì con có thể mở mắt… Hôm nay, con cảm thấy thế nào?
Tôi đã cảm thấy thế nào? Tôi chỉ có thể nói rằng khi ngồi đó cùng thiền sư, không còn cố gắng điều chỉnh, sắp đặt, hay làm bất cứ điều gì với thân và tâm nữa, tôi hòa vào những gì mà có thể các bạn sẽ cảm nhận được từ cuốn sách này.
Càng tới những buổi tối cuối cùng, các câu hỏi của tôi càng thưa dần, cho đến lúc bản thân tôi không còn gì để hỏi; ngoại trừ tôi muốn hỏi hộ những bạn đọc tương lai. Nhưng rồi, cả điều đó nữa – một cái muốn – cũng giải tỏa chính nó. Càng sống với thiền sư, tôi càng thấy rõ rằng, dù cuộc đời thiền sư đầy những chuyện li kì về trải nghiệm tâm linh và các kiếp nạn lạ lùng – mà tôi có thể khai thác để lôi cuốn bạn đọc – thì cái cốt tủy của cuộc đời ấy không nằm ở những sự li kì này. Trái lại, nó là sự bất động của một tấm lòng trong suốt – mà thiền sư gọi là “Tấm Lòng Không” – khi ở giữa ngàn cảnh vạn duyên. Cuộc đời của thiền sư – xuyên qua những năm tháng từng được phong thánh rồi bị coi là kẻ tội đồ, lúc là bậc cứu độ vạn vạn người và khi là kẻ sát nhân bất cẩn – là sự thị hiện hiếm có về nguồn gốc khổ đau và cách nhổ bật nhân khổ đó, vĩnh viễn tự do.
***
Cuốn sách này, vì thế, không phải là một cuốn sách về những câu chuyện li kì. Nó cũng không phải cuốn sách nhằm giải thích chuyện quá khứ. Tôi đã cố gắng viết một cuốn sách thẳng cốt tủy của thiền sư, bằng lời của thiền sư. Đi kèm trong sách là hơn 100 bài thơ tôi dịch từ ba tập thơ của thiền sư và một số hình ảnh do tôi tự chọn [2].
Bất cứ lời nào tôi viết thêm ở đây để giới thiệu về thiền sư cũng là thừa. Có một điều này thì tôi xin nói. Khi tôi bắt đầu viết cuốn sách này và bày tỏ lo lắng rằng tôi sẽ không thể khắc họa thiền sư một cách trọn vẹn – và sự thật là tôi không thể – thiền sư Yantra đã nói với tôi, “Con hãy giải phóng con khỏi lo lắng đó. Con có thể viết theo bất cứ cách nào con muốn.” Dẫu vậy, tôi xin được khẳng định rằng bất cứ sai sót nào trong cuốn sách này đều là lỗi của tôi trong quá trình ghi chép và viết. Tôi xin thiền sư và các bạn đọc rộng lòng lượng thứ. Mọi tốt lành có được từ việc viết cuốn sách này, xin được chia cho tất cả.
Nguyện cho bất cứ ai tiếp xúc với cuốn sách này đều sẽ hòa nhập thẳng cốt tủy của thiền sư Yantra Amaro, thẳng sự thật, tự do, tỏa sáng.
Viết tại chùa Rombodhidharma tỉnh Loei, Thái Lan.
Tháng 9-2020
Phan Việt
[2] Những bức ảnh trong sách này đến từ bốn nguồn: do tôi hoặc các sư cô chụp, do chụp lại những bức ảnh của thiền sư mà tôi thấy treo trong chùa hoặc trong các cuốn sách; do các sư của chùa Sunnataram hoặc đệ tử của thiền sư gửi cho tôi; hoặc do lấy từ các websites do đệ tử của thiền sư làm từ cách đây nhiều năm. Xin được lượng thứ về những bức ảnh mà tôi dùng nhưng không thể truy dấu tác giả gốc để xin phép sử dụng.