Mùa an cư đầu tiên: Đi bộ từ Nam ra Bắc

Khi xuất gia, tôi nghĩ duy nhất một điều: tìm ra sự thật rốt ráo để chấm dứt khổ. Lúc đó tôi không nghĩ đến giúp ai cả. Tôi chỉ muốn tu chính mình, giác ngộ chính mình. Vì tôi nghĩ tôi chỉ có thể giúp người khác khi chính tôi hết khổ. Tôi cũng có hơi ích kỷ như vậy. 

Thật sự, từ thời kỳ là đạo sĩ, tôi đã thấy rõ pháp rồi. 

Nhưng thấy pháp không có nghĩa là giác ngộ. 

Nó chỉ có nghĩa là tôi có pháp trong tâm; tôi không còn nghi ngờ gì về việc phải thực hành thế nào để giác ngộ. Sự hết nghi này tự hình thành bởi vì tôi thấy rõ nội tâm của mình thay đổi hoàn toàn khi tu. Nhưng tôi vẫn chưa giác ngộ vì còn các chướng nghiệp ngăn cản. Nó giống như tôi muốn đi đến Bangkok và đã biết rất rõ đường đi nhưng còn chưa tới Bangkok. Nếu đã tới rồi thì sẽ không phải đi đâu nữa. Tập khí và ham muốn vẫn quấy rầy tôi. Không dễ. Sự thật thì ham muốn nhục dục là một chướng ngại lớn. Những thứ khác không quá khó với tôi nhưng dục cảm thì thỉnh thoảng vẫn trỗi dậy. Thỉnh thoảng, nó vẫn đến theo bản năng và làm tôi phiền não. Tôi còn chưa tự do.

Mùa an cư đầu tiên sau xuất gia, tôi ở chùa Ratanaram Bangboa tại quê tôi. Chùa nằm cạnh sông và cạnh vịnh. Tôi muốn ở cạnh bố mẹ và họ hàng trong mùa an cư đầu. Truyền thống an cư trong mùa mưa này xuất phát từ chỗ vào thời Đức Phật, khi mùa mưa đến, tăng đoàn của Đức Phật đi khất thực qua ruộng của người dân thì dẫm nát ruộng. Vì thế người dân đến bạch Phật. Vậy là Phật chế định cho tăng đoàn ở yên một chỗ tu tập suốt mùa mưa. Gọi là mùa an cư. Nếu không có mùa an cư thì chư tăng sẽ tudong quanh năm, trong tất cả các mùa. Họ sẽ đi liên tục, không dừng.

Trong mùa an cư đầu, tôi nói pháp cho bố mẹ và người thân rất nhiều. Tôi muốn tri ân cha mẹ. Mỗi ngày tôi khất thực vào buổi sáng; sau đó ăn sáng rồi chia sẻ pháp. Thời gian mỗi ngày đều chủ yếu để nói pháp. Ngày nào cũng như vậy. Mọi người hỏi pháp; tôi nói pháp; rồi người khác hỏi, tôi lại nói pháp. Cứ như vậy. Pháp tháo gỡ các vướng mắc trong thực hành và trong đời sống gia đình.

Khi mùa an cư hết, tôi lập tức lên đường. Tôi chào cha mẹ và người làng, đeo bình bát lên vai, bước ra khỏi làng. Tudong là vậy.

Năm đầu tiên, từ quê nhà ở miền Nam, tôi tudong về hướng Bắc. Tôi dùng đường tàu hỏa Nam – Bắc làm định hướng và cứ thế đi bộ chân đất từ làng này sang làng khác, dọc đường tàu hỏa. Khi qua mỗi làng, dân làng thấy một vị tăng tudong qua thường sẽ tới đặt bát và hỏi pháp. Có những gia đình sẽ thỉnh tăng tới nhà thọ trai và nói pháp cho gia đình. Khi đó, có khi cả làng cùng tới nghe pháp. Thường tôi không dừng ở làng nào mà đi liên tục từ làng này sang làng khác. Nhưng nếu thấy một làng có duyên nghe pháp, tôi có thể dừng lại 1 ngày, 2 ngày, hoặc 3 ngày để chia sẻ pháp. Nếu có một nơi thật đặc biệt, tôi sẽ dừng lại 7 ngày. Nhưng không bao giờ quá 7. 

Mỗi ngày, tôi bắt đầu lên đường từ sớm và đi cho đến lúc mặt trời lặn. Có hôm mặt trời lặn rồi nhưng trời còn sáng thì tôi đi tiếp. Thậm chí trời đã tối nhưng cảm thấy còn khỏe thì tôi vẫn đi. Thỉnh thoảng tôi dùng đèn pin soi đường để đi trong đêm. Thời đó nhiều vùng nông thôn, miền núi và rừng rất tối. Điện ít hoặc không hề có điện. Nếu trăng sáng thì không cần đèn, cứ bước dưới ánh trăng. Đi, đi, đi. Bước, bước, bước. Tôi đi như thế cho đến khi thấy một nơi thích hợp thì dừng lại, treo màn muỗi nghỉ đêm. Thường thì tôi nghỉ đêm trong nghĩa địa.

Nghĩa địa ở Thái Lan thường là một khu giữa cánh đồng hoặc khu cách rời làng mạc. Ở đây luôn vắng người. Vào ban đêm, thường không có ai. Tôi trải tấm nhựa trắng mang theo xuống đất; rồi mắc màn muỗi. Sau đó tôi vào trong màn ngồi thiền. Tôi ngồi có khi 3 tiếng, có khi suốt đêm, cho đến khi mặt trời lên. Tôi chỉ ngồi quan sát hơi thở. Vẫn niệm pháp Buddho. Cũng có lúc tôi ra ngoài đi bộ rồi vào màn ngồi tiếp. Có đêm, cú lợn kêu hoặc các con thú đi lại sột soạt làm lông tóc tôi dựng đứng. Có lúc tôi ngửi thấy mùi lạ và tôi biết nó đến từ các chúng sinh quanh đó. Nhưng tôi vẫn tiếp tục quan sát hơi thở với niệm pháp “Buddho, Buddho…” đồng thời gửi từ bi đến họ. Rồi họ cũng biến mất. 

Ở nghĩa địa có sợ không? Có. Hồi còn nhỏ, tôi rất sợ trời tối và sợ ma. Nếu buổi tối cần ra nhà vệ sinh bên ngoài, tôi luôn phải có bố hay mẹ đi cùng. Trong mùa an cư đầu tiên này, tôi vẫn sợ. Nhưng tôi vẫn ngồi. Tôi lấy sự sợ hãi làm đối tượng để tu. Sợ hãi trở thành thử thách mà tôi phải vượt qua và thấu tỏ. Khi ngồi và nỗi sợ đến, tôi tiếp tục ngồi. Tôi quan sát nỗi sợ. Tôi quan sát các tâm sinh lên cùng với nỗi sợ. Tôi quan sát chu trình tâm sinh khi nghe tiếng động xung quanh, cách các tưởng tượng khởi sinh, và rồi cảm giác sợ phát khởi. Khi nhìn thẳng và thản nhiên vào chu trình này, thì nỗi sợ sẽ tan. Mỗi đêm, trước khi ngủ, tôi gửi lòng từ tới tất cả chúng sinh quanh nơi ngủ và chúng sinh khắp pháp giới. Như thế, tôi có thể ngủ ngon.

Khi tudong, tôi chỉ mang theo bình bát, màn muỗi, một cái ô, và bình nước. Tôi không mang thuốc theo vì không ốm bao giờ. Tôi cũng có kim chỉ để tự khâu vá nếu y rách. Tôi chỉ có một bộ y, gồm ba phần: một cái áo ngắn bên trong, miếng quây bên dưới (gọi là sbong), và y lớn đắp ngoài. Ngoài ra thì còn có một tấm để vắt vai, gọi là sangati. Tôi luôn mặc đủ ba y khi tudong; còn tấm sangati thì tôi để trong bình bát khi đi bộ. Khi nào y trên người bị ướt hoặc cần giặt thì tôi lấy tấm sangati để thay. Khi cần giặt, tôi tìm sông suối hay thác nước trong rừng. Tắm cũng ở sông suối hay thác nước. Đi vệ sinh thì theo cách tự nhiên.

Tôi cứ đi như thế, chân đất, ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác. Cũng không còn để ý ngày tháng. Chỉ cứ ngày rồi đêm, ngày rồi đêm. Giờ nối giờ. Mùa nối mùa. Trời nắng tôi cũng đi. Trời mưa tôi cũng đi. Có khi tôi đi bộ cả ngày dưới trời mưa. Quần áo ướt rồi tự khô, rồi ướt lại, rồi lại tự khô. Lúc đó, tôi rất khỏe, không bao giờ ốm bệnh.

Mỗi ngày, tôi chỉ ăn một bữa vào khoảng giữa buổi sáng. Giờ sáng sớm là giờ khất thực. Khất thực xong, khoảng 9 giờ sáng tôi sẽ ngồi ăn. Tôi ăn rất chậm, có khi vài giờ mới xong bữa. Những đồ khất thực được, bất kể là hoa quả, cơm, cà-ri, chè, cháo, bánh tráng miệng, mặn, ngọt, chua, cay, tôi cho hết vào bình bát rồi đổ nước trộn tất cả thành một hỗn hợp. Tôi ăn như thế, cũng chẳng quan tâm nó có mùi vị thế nào. Tôi nhai chậm và quán những thứ mình ăn.

Sự thật là thức ăn chỉ là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa kết hợp với nhau. Chúng ta ăn chỉ để nuôi thân thể này – vốn cũng hợp thành từ bốn yếu tố. Chỉ là bốn đại hỗ trợ bốn đại. Thực tế, chúng chẳng là cái gì cả. 

Vị thức ăn chỉ tồn tại ở đầu lưỡi. Khi qua khỏi lưỡi là không còn cảm nhận vị nữa rồi. Cổ họng ta không cảm nhận vị. Dạ dầy cũng không cảm nhận vị. Chỉ có một chút đầu lưỡi thôi. Nó là ảo tưởng vị giác. Khi còn ảo tưởng về vị, chúng ta sẽ dính mắc vào vị của thức ăn. Vị này ngon, vị kia dở. Và phải khổ sở để tìm thức ăn có vị ngon. Thật sự thì vị chẳng hề là cái gì. Bản thân vị không tự ngon hay dở; chỉ có chúng ta tự gán ý nghĩa.

Thế nên những ngày đầu tu hành, tôi luôn trộn hết thức ăn với nhau, rồi nhai chậm để cảm nhận cái ở trên đầu lưỡi. Vị chỉ là vị. Chỉ thế thôi. Không là gì mà dính mắc, ham muốn. 

Những thứ khác cũng thế. 

Mùi. Thơm, không thơm.

Âm thanh. Êm tai hay không êm tai. Tiếng khen, tiếng chê.

Hình ảnh. Ưa mắt hay không ưa mắt.

Ý nghĩ. Tốt, không tốt.

Cảm giác. Dễ chịu, không dễ chịu.

Tất thảy mọi thứ. Tự chúng không tự cho mình ý nghĩa gì.

Khi ta đưa ý nghĩa ảo tưởng và dính mắc, nắm bắt bất cứ thứ gì thì đều khổ.

Đối với tôi, tudong là một kinh nghiệm quan trọng. Sau này, khi trở thành thầy, tôi vẫn dạy đệ tử tudong. Tôi không yêu cầu họ phải làm tất cả những gì tôi đã làm. Tôi biết như vậy là khó. Nhưng tôi muốn họ có kinh nghiệm sống một mình với thiên nhiên. Nên có một ít kinh nghiệm hành hạnh đầu đà một mình hoặc sống một mình trong rừng núi. Nó giúp ta bằng lòng với bất cứ thứ gì xảy đến với mình mỗi ngày và không dính mắc vào tiện nghi. Khi ta không dính mắc vào sự thoải mái, tiện nghi cho thân thể này thì tâm rất dễ giải thoát. 

Tôi tin rằng sống đơn giản là cao quý. Không cần tiền. Không sợ không có tiền. Không cần của cải vật chất. Chỉ những thứ thực sự cần thiết nhất. Chỉ vậy thôi.

Đấy là mùa an cư đầu tiên của tôi. Đến giờ đã hơn 40 năm. Tôi có 20 mùa an cư ở Thái, 20 mùa ở Mỹ. Nhưng từ lâu rồi, tôi không đếm mùa an cư. Cũng không còn tính tuổi hạ. Không quan trọng. Ngày nào cũng như ngày nào.

Winai

PV: Anh theo sư phụ đã bao nhiêu năm rồi?

Winai: Gần 30 năm.

PV: Anh xuất gia với sư phụ?

Winai: Vâng. Tôi xuất gia với sư phụ ở Thái. Sau này, sư phụ bảo tôi sang Úc một thời gian, ở chùa bên đó. Rồi khi sư phụ đi Mỹ thì tôi sang đây. Tôi vẫn đắp y lúc sang Mỹ. Đến sau năm 2002, sư phụ vào rừng ẩn tu thì tôi mới xả y.

PV: Cái mà anh ấn tượng nhất ở sư phụ là gì?

Winai: Sự thanh tịnh.

PV: Nghĩa là gì?

Winai: Sư phụ không thay đổi. Trái tim, tấm lòng sư phụ không thay đổi. 30 năm mà tôi biết sư phụ, sư phụ vẫn thế. Sư phụ đối xử với tất cả mọi người giống nhau. Không phân biệt. Già trẻ, giàu nghèo, như nhau. Tôi đắp y hay xả y, không có gì thay đổi. Tôi có thế nào, sư phụ đối với tôi vẫn từ bi như vậy.

Thiền sư Yantra trong những ngày tháng hành cước chân đất quanh nước Thái
Thiền sư Yantra trong những ngày tháng hành cước chân đất quanh nước Thái
Mỗi sáng, tôi khất thực qua các làng
Mỗi sáng, tôi khất thực qua các làng
Tắm thì ở sông, suối, hay thác nước trong rừng
Tắm thì ở sông, suối, hay thác nước trong rừng
Tôi đi từ làng này qua làng khác, trừ khi thấy một làng đặc biệt thì tôi dừng lại nói pháp
Tôi đi từ làng này qua làng khác, trừ khi thấy một làng đặc biệt thì tôi dừng lại nói pháp
Rồi tôi lại từ biệt họ để đi tiếp
Rồi tôi lại từ biệt họ để đi tiếp
Tất cả đồ khất thực được, tôi cho vào bình bát, trộn đều thành một hỗn hợp rồi ăn
Tất cả đồ khất thực được, tôi cho vào bình bát, trộn đều thành một hỗn hợp rồi ăn
Quotes-2

Cuộc đời tự do

Con hãy sống tự do như những con chim
Dừng cánh ngủ bất cứ nơi nào khi đêm xuống
Không lo lắng ngày đêm tích trữ đầy tổ ấm
Mỗi sáng ngày chim rời tổ bay đi
Chỉ tìm thức ăn đủ ngày hôm đó.

Một con chim tự do có thể bay cùng trời cuối đất
Dù cánh nhỏ và lông đuôi ngắn
Những con công tuy có bộ lông dài
Nhưng chẳng thể bay lượn giữa bầu trời
Bởi quá say mê, đắm đuối lông cánh đẹp.

Có những con chim líu lo trong lồng hẹp.
Được cho uống cho ăn, được chăm sóc ngày đêm
Nhưng suốt đời tù túng với ấm êm
Sao bằng làm cánh chim tự do không giới hạn

Là khất sĩ, ta có thể tự do sải chân muôn vạn dặm
Không dính mắc, không mong cầu, không bị buộc ràng bởi bất cứ điều chi.

Quotes-2

Con đường an lạc

Trên con đường an lạc
Đều bước… đều bước…
Vào đời, chân thực!
Tỉnh giác, tỏ tường
Vững vàng, sâu sắc, nhẹ nhàng.

Quotes-2

Mười hai căn cảnh

Khi cảnh giới bên ngoài và cảnh giới bên trong tiếp xúc nhau,
Cảm xúc sẽ sinh khởi:
Có lúc vui
Có lúc buồn
Có lúc không buồn, không vui.

Cái nhận biết những cảm xúc này gọi là “Tâm”
Tâm nhận biết một đối tượng của giác quan
Tâm nắm giữ đối tượng của giác quan
Tâm khởi tạo một đối tượng của giác quan
Tâm diệt trừ một đối tượng của giác quan.
Tâm có thể cảm thấy thỏa mãn, khổ đau, hay bình lặng.

Đức Phật dạy:

Hãy lấy chánh niệm và tỉnh giác làm đồng hành.
Hãy chánh niệm về Tâm.
Quán xét Tâm.
Và giữ Tâm bình lặng.
Quán xét các đối tượng của giác quan xung quanh
Cho đến lúc con thấy rõ bản chất của chúng.
Khi đó sự dính mắc vào chúng sẽ rụng rơi.
Và con sẽ có tự do, bình an, thanh tịnh.

Con sẽ không còn trong vòng hiểm nguy và tổn hại.
Cuộc sống sẽ hạnh phúc, rộng mở, an nhiên.
Một cuộc đời vững chãi, không lay chuyển bên trong.
Cuộc đời tự nhiên và thanh tịnh.

Con có thể tự thấy, tự biết.
Tự giác ngộ điều này.
Ai ngộ, người đó biết.

Rèn tâm trí cũng giống như rèn thân thể.
Càng rèn luyện, cơ thể con càng khỏe.
Thế nên hãy tập giữ chánh niệm thường xuyên.
Chánh niệm con sẽ ngày càng tăng.
Ngày càng sắc, rõ, sâu, và liên tục.
Khi đó, mỗi việc làm, lời nói.
Sẽ sáng suốt, hiệu quả, và tinh anh.
Như cần phải thế.

Một tiếp xúc giữa cảnh giới bên ngoài và bên trong
Là căn nguyên cho cả vô minh lẫn giác ngộ.
Nếu tiếp xúc đó có chánh niệm, tỉnh giác bảo hộ.
Một sự tỉnh giác đầy đủ, cân bằng.
Nó sẽ là nhân cho giác ngộ.
Nếu chánh niệm, tỉnh giác của con không đủ.
Thì tiếp xúc đó sẽ mở đường cho vô minh.
Và khiến Tâm tăm tối.
Tuy thế, vô minh có thể được tắm gội.
Được giác ngộ chiếu soi.

Tâm có chánh niệm, tỉnh giác đồng hành.
Sẽ dập tắt ngọn lửa phiền não.
Diệt tận khổ đau.

Khi lửa tắt, Tâm thuần khiết một cõi an vui.
Lúc này Tâm luôn luôn phẳng lặng.
Ngay ở trong tất cả các tiếp xúc.
Nó thấy mọi việc đơn giản, hiển nhiên.
“Chúng là thế đó!”
Vậy nên, việc gì xảy ra cũng bình thường.
Cũng hài hòa.
Cũng thuận Pháp.

Pháp chính là chánh niệm, tỉnh giác toàn hảo
Vượt khỏi nhị nguyên.
Tất cả hòa hợp nơi Tâm.
Tất cả trong một.
Không còn chia cắt.
Pháp có mặt để nhận biết… để tỉnh thức…
Để vui.
Pháp có mặt, bình thường mà sâu sắc.
Thuận cùng tất cả.

Khi một tiếp xúc xảy ra.
Dù thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, hay bất kỳ phần nào trên thân thể.
Tâm nhận biết tất cả.
Hãy để tâm con không thiên lệch.
Không chán ghét hay ham ưa.
Cũng không bị cảm xúc cuốn đi.
Chỉ nhẹ nhàng chánh niệm.
Giữ sự nhận biết tự nhiên.
Vững vàng bên trong.
Cho đến khi năng lực trực nhận trở nên sắc nét.

Chánh niệm sẽ biết rõ quá trình sinh, trụ, tàn, và diệt.
Chánh niệm nhanh nhạy sẽ trở thành Định.
Là trạng thái nhất như và bất động.

Khi chánh niệm lớn mạnh hoàn toàn
Nó chỉ còn là sự nhận biết trong suốt, chân xác, tỏ tường.
Nó biết chỉ để không dính mắc, để diệt hoàn toàn nhân khổ
Để tự do.
Nó KHÔNG.

Như thế cảm xúc trở về thật tướng, thanh tịnh.
Khi mắt thấy
Khi tai nghe
Khi mũi ngửi
Khi lưỡi nếm
Khi thân xúc chạm
Khi ý cảm nhận.
Tâm KHÔNG.
Ý nghĩ dù khởi sinh đều thanh tịnh và cân bằng.

Đây là thật tướng của vạn pháp: vốn thanh tịnh như thế.
Vốn bình an, mát lành, và yên ổn mọi thời.

Khi đó con sẽ sống tiếp cuộc đời.
Tiếp tục làm, tiếp tục cống hiến.
Dưới sự dẫn dắt của lòng từ và trí tuệ trong suốt.
Thuận pháp một cách tự nhiên.

© Copyright 2021 by Phan Viet Author.
All rights reserved.