Mùa an cư thứ 4 trôi qua. Hết mùa an cư, tôi lại tudong.
Rồi mùa an cư thứ 5 tới. Năm đó, tôi đi bộ tới Chiang Mai và ở thác Tad Mokh. Rất nhiều người đến an cư cùng tôi. Nơi đó rất thuận cho tu hành. Có một cái hang hai tầng; tôi ở tầng trên; mọi người ở tầng dưới. Mùa đó, chúng tôi thiền tọa và thiền hành rất nhiều.
Người Thái Lan đa phần theo đạo Phật; tuy thế, người mỗi vùng lại tu theo cách khác nhau và có niềm tin khác nhau về đạo Phật. Nhiều người nghĩ đạo Phật là các nghi lễ, là cầu xin chư Phật, hoặc thờ cúng thánh thần ma quỷ. Khi tôi tudong qua các tỉnh, người ta đến hỏi chuyện ma quỷ thánh thần rất nhiều. Họ nhờ “xem” cái này cái nọ; làm lễ diệt trừ cái nọ, cái kia. Nhưng tôi chỉ nói với họ cốt tủy những gì đức Phật dạy. Đức Phật dạy về nguồn gốc của khổ đau và cách chấm dứt khổ. Đấy là cốt tủy.
Có những nơi tôi đến, cả làng chìm trong sợ hãi và thờ phụng ma quỷ thánh thần. Tôi có trải nghiệm các cảnh giới nhưng khi nói pháp, tôi không nhấn mạnh những chuyện này. Rất hiếm khi tôi nói chuyện ma quỷ thánh thần, cõi này cõi kia với họ. Tôi không muốn họ sợ hãi hoặc sinh tâm phân biệt về các nhóm chúng sinh và các cảnh giới. Tôi không muốn họ yêu nhóm này, ghét nhóm kia, sợ nhóm này, kính nhóm kia. Không phải thế. Tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau cả. Luân hồi là một đại gia đình. Chúng ta đều cùng trong biển cả sinh tử; đều có khổ như nhau. Không cần chia tách các nhóm. Không cần phải nghĩ cõi cao cõi thấp. Khi tôi trải từ bi mỗi ngày, tôi không tập trung vào nhóm nào. Tôi tỏa đều mọi cảnh, mọi cõi.
Có rất nhiều người sợ ma. Bởi vì họ chưa hiểu. Họ chỉ có định kiến từ những gì được nghe kể về ma. Tôi thường khuyên họ đừng sợ. Đôi khi ma đến để xin ta giúp đỡ. Hãy giúp họ. Hãy gửi lòng từ bi tới họ. Khi tôi gặp người đã có trải nghiệm về các cảnh giới và cần học do duyên và sứ mệnh của họ thì tôi mới nói chuyện đó với họ. Còn với những người chưa có trải nghiệm hoặc không tin, tôi không bao giờ đề cập. Thường tôi không nói những chuyện này. Tôi chỉ nói chân pháp. Cốt tủy chân pháp. Chỉ thế thôi.
Suy cho cùng thì dù ở đâu, ta chỉ có một việc duy nhất. Đó là giúp đỡ chúng sinh. Nghĩa là ở đâu thì cũng chỉ lan tỏa tánh không và từ bi tới tất cả. Lan tỏa không phân biệt. Chúng sinh nào vào vòng lan tỏa đều sẽ nhận được như nhau. Tôi không nhấn mạnh ma quỷ mà cũng không nhấn mạnh chư thiên, thần linh, cõi trời.
Trong đời tu hành của mình, người ta đã hỏi tôi đủ thứ ly kỳ, lạ lùng. Họ nhìn thấy thế này, họ nghe thấy thế kia, chuyện này chuyện nọ xảy ra với họ hay gia đình họ. Trước nay đều thế, tôi nghe nhưng thường không trả lời bởi vì việc biết những thứ này không ích gì cho họ. Nó không giúp họ hết khổ. Nó chỉ khiến họ thêm tưởng tượng và thêu dệt trong tâm rồi mắc kẹt trong tưởng tượng. Tôi chỉ nói pháp để chấm dứt khổ. Đấy là lõi. Tất cả những gì không giúp chấm dứt khổ, tôi sẽ không nói.
Không nói không có nghĩa là chúng không tồn tại. Có điều biết những điều đó không ích gì nên tôi không nói. Căn cơ mỗi người rất khác nhau. Tôi tùy căn cơ mà nói cho từng người hết khổ.
Khi không nói pháp thì thường tôi không nói gì. Chỉ cười. Thế nên các đệ tử của tôi rút ra là nếu tôi không cười tức là có chuyện. Khi xưa, tôi nghiêm với đệ tử lắm, không dễ như bây giờ. Giờ thì dễ quá. Giờ thì thế nào cũng được. Cái gì cũng được cả. Trước đây thì tôi nghiêm. Trước đây, nếu thấy tôi không cười, thì mọi người cũng sẽ im lặng.
Điều này nghĩa là gì? Nghĩa là tất cả chúng ta đều kết nối với nhau. Bất cứ cái gì ta làm, dù lời nói hay cử chỉ rất nhỏ, đều tác động tới xung quanh. Tôi nhận ra điều này rất sớm, ngay từ những năm đầu xuất gia. Hồi ấy, vào buổi sáng, khi tôi một mình ôm bình bát xuống núi khất thực, nếu tôi im lặng thì chim, ve, dế, côn trùng cũng im lặng. Cả lũ khỉ cũng sẽ ngồi rất im. Cây cối cũng lặng im. Chúng sinh xung quanh tự cảm nhận được. Nhưng nếu tôi cười vui thì tất cả cũng vui theo. Chim muông vui. Khỉ nhảy nhót. Cây cỏ vui. Gió thổi vui. Nó tự nhiên là vậy. Tự động như vậy. Toàn thể thiên nhiên và chúng sinh luôn kết nối với ta; luôn có thể cảm nhận và tùy hỉ cùng ta. Đấy là lý do mà khi ta gặp một người, ta có thể trực nhận người đó thế nào. Dù chưa biết nhau bao giờ, ta vẫn có thể cảm nhận mình vui mừng hay bị cuộn bên trong khi gặp một người lạ. Gặp một bậc thầy cũng thế. Ta có thể cảm nhận đây có phải thầy của ta. Có những bậc thầy rất nổi tiếng mà ta không cảm thấy gì khi gặp họ. Nếu có duyên thì khi gặp, ta sẽ cảm nhận được.
Khi làm thầy, tôi không chú trọng có nhiều đệ tử. Tôi quan tâm đến chất lượng người tu hơn số lượng. Chất lượng người tu hành nằm ở sự tu hành. Người tu hành thì tu hành. Tu hành là lõi của người xuất gia. Có nhiều đệ tử mà họ không tu, thì đâu ích gì.
Thế nào là người tu hành tốt? Với tôi, tu hành tốt là biết rèn sửa mình và chân thật trong rèn sửa mình. Tu trung thực. Tu chân thành. Tu thật. Tôi không kỳ vọng các đệ tử của tôi phải làm tất cả những gì tôi đã làm. Tôi biết làm vậy là khó. Nhưng tôi mong họ trung thực trong những gì họ làm. Ngay cả việc ăn chay, tôi cũng không quá khắt khe với đệ tử. Nếu họ muốn ăn thịt như những chùa Thái khác, họ vẫn có thể ăn, chỉ đừng ăn trong chùa. Họ có thể ăn ở ngoài chùa. Tu hành không quá khó nhưng nó cũng không dễ. Nếu dễ thì thế giới này đã có rất nhiều bậc a-la-hán rồi. Nhưng hầu hết con người vẫn còn trong luân hồi, vẫn khổ rất nhiều. Nó tùy căn cơ.
Được biết Phật pháp, được tu hành là một may mắn lớn. Biết pháp nghĩa là có cơ hội giải thoát, tự do hoàn toàn, chấm dứt mọi khổ. Thế nên ta cần dành thời gian cho pháp. Đừng lãng phí thời gian vào những chuyện không cần thiết của đời sống; nếu không sẽ là quá muộn. Nếu có thể tu lúc này, hãy tu ngay. Đừng chờ.
Dù vào chùa hay không, tất cả chúng ta cũng nên tu sửa bản thân mình.
Dù xuất gia hay không, cũng nên tu sửa bản thân.
Tu sửa ngay bây giờ.
Có thể học rất nhiều từ chính mình. Nếu chúng ta không rõ chính mình thì ta đang bỏ lỡ điều tuyệt vời nhất khi được làm người.
Nếu ta không biết sự thật về mình thì dù ta có rất nhiều tiền bạc, ta cũng không thể hạnh phúc thực sự. Tôi tin rằng các vị thầy trên kia (chỉ các bức ảnh trên tường) đều rất an lạc. Tâm họ bình an.
Thời gian và đời người trôi qua rất nhanh. Thực sự rất nhanh. Đừng chờ đến mai. Hãy rõ mình ngay lúc này.
Pháp thì phải hành. Dù ta hiểu pháp nhưng không hành thì tâm không giải thoát. Nó giống như ta đói nhưng chỉ đọc thực đơn mà không ăn. Ăn mới hết đói.
Hãy tu hành, hãy cho đi, hãy cống hiến. Càng cho đi, càng xả ly, ta càng tự do. Cái tự do này có sức mạnh tuyệt vời. Nó không phải sức mạnh thông thường.
Không phải sức mạnh kiểu có quyền lực. Nó là sức mạnh giúp người khác cũng tự do. Sức mạnh giúp người khác hết khổ tận gốc.
Nó là sức mạnh để không còn bị khống chế bởi nghiệp.
Không bị đi theo thói quen.
Không bị cuốn trong đời sống vô thường.
Không bị ảo tưởng.
Không bị khống chế bởi bất kỳ điều gì xảy ra với ta.
Khi bên trong tự do, mọi việc ta sẽ làm bên ngoài sẽ chính xác và hiệu quả tuyệt đối. Nhiều người luôn bận rộn làm rất nhiều việc, nhưng họ quên mất việc hiểu rõ bên trong mình. Họ có thể rất nổi tiếng; như các vị tổng thống hay thủ tướng. Nhưng vào cuối đời, tâm họ không an. Những giây phút trước khi chết, họ mờ mịt. Sau khi họ chết, bao nhiêu người nhớ ai là tổng thống hay thủ tướng cách đây 10 năm, 30 năm? Nhưng còn Đức Phật hay Chúa Giê-su, những lời dạy của họ vẫn tồn tại qua hàng ngàn năm và vẫn còn tiếp tục giúp con người hết khổ. Đấy là lý do pháp là điều quan trọng nhất trong đời.
Đối với việc dạy pháp, có những bậc thầy chỉ dạy pháp tối thượng. Họ dạy thẳng lên phần ngọn cao nhất của cái cây, cho những người có căn cơ cao. Đấy là những người đã tích lũy rất nhiều phước báu từ quá khứ. Họ có thể nhảy vọt lên ngọn cây khi gặp pháp. Tôi hiểu điều đó. Đa số không được như vậy. Hầu hết con người cần khuôn khổ và hướng dẫn thì mới theo được; nếu không, tâm họ tán loạn hết. Không có quy tắc cho họ bám, tâm họ lang thang khắp nơi. Giống như những bức ảnh treo trên tường kia. Nếu ta không cho ảnh vào khung thì sẽ không thể giữ được lâu. Cho nên tôi vẫn dạy đệ tử phải giữ giới. Tôi vẫn cho họ thời khóa tu tập mỗi ngày. Với người căn cơ cao, thì tùy căn cơ mà dạy họ. Có thể dạy cả rễ, gốc, thân, cành, lên tới ngọn. Ajahn Mun vẫn luôn chú trọng việc giữ giới trước; sau đó mới dạy thiền chỉ, thiền định. Từng bước một. Giới, định, tuệ. Nó làm cái móng. Còn nói đến rốt ráo thì vượt trên cả giới, định, tuệ. Vượt trên tất cả.
***
Vào mùa an cư thứ 6, tôi đi bộ tới Chiang Mai và ở trong một cái hang tên là Huay Bonn. Sau mùa an cư, tôi tới đảnh lễ thầy tôi, Luang Pu Suk. Tôi nói với thầy là tôi muốn tudong sang Miến Điện. Thầy nói, “Cẩn thận. Con đừng sang Miến Điện. Người ta có thể bỏ tù con.” Tôi nói, “Không sao. Nếu có chuyện gì xảy ra thì cũng là bài học tốt cho con.” Chúng tôi nói sang chuyện khác. Bất ngờ, thầy đưa tay lên miệng, lay lay một cái răng rồi nhổ nó ra và đưa cho tôi. “Đây, cầm lấy”.
Hồi đó đang có xung đột biên giới giữa người Miến Điện và khu tự trị Chan. Tôi tudong tới khu tự trị Chan, gặp một vị tướng ở đó và nói pháp với ông ấy. Chúng tôi trở thành bạn. Ông ấy cho tôi một cái bản đồ. Sau đó, tôi đi tiếp qua biên giới sang đất Miến Điện. Một buổi chiều tối, tôi đang đi bộ hướng về phía Yangon thì bộ đội Miến Điện bắt tôi. Họ nói tôi là gián điệp bởi vì họ lục thấy bản đồ mà vị tướng người Chan đã cho tôi. Họ đưa tôi tới một nhà tù ở miền Nam Miến Điện.
Tôi ở trong một phòng giam lớn cùng với nhiều tù nhân khác. Phòng giam rất sạch vì ngày nào tù nhân cũng lau phòng. Mỗi ngày, họ rung chuông thức tù nhân dậy lúc 6 giờ sáng. Tôi thường dậy từ 5 giờ để ngồi thiền. Có điều, trong tù không thể ngồi lâu. Chúng tôi không phải lao động hay làm gì cả. Tôi dành nhiều thời gian đi bộ. Nhà tù rất lớn. Tôi đi bộ khắp nơi thăm các bạn tù khác. Tôi vẫn ăn một bữa mỗi ngày. Cơm tù là gạo hẩm, nhiều mọt. Khi ăn tôi phải nhìn kỹ để bỏ những con mọt ra. Nhà tù cũng có phòng tắm; mỗi người được 5 ca nước để tắm gội mỗi ngày. Họ có người đứng gác để kiểm tra số ca nước.
Thực sự, tôi rất thoải mái khi ở tù. Tôi có cả ngày để thực hành. Tôi tự giữ thời khóa hàng ngày cho mình. Mỗi ngày, tôi vẫn tự có các thời thiền tọa, thiền hành như lúc ở ngoài. Tôi vẫn đắp y đầy đủ. Cuộc sống mỗi ngày của tôi vẫn là của một người xuất gia. Ngồi thiền, đi thiền, ăn chay, và ăn một bữa. Sau một thời gian, các bạn tù bắt đầu tò mò. Họ đến hỏi chuyện tôi. Tôi nói chuyện Phật pháp với họ và dạy họ thiền. Chúng tôi bắt đầu hành thiền trong tù. Rồi người bên ngoài tù biết chuyện. Người Miến Điện theo đạo Phật nhiều. Họ mang thức ăn đến cúng dường cho tôi. Ngay cả những người canh tù cũng rất tử tế với tôi.
Có một lần duy nhất trong tù, tôi đã làm một chuyện không mấy tốt. Chuyện là thế này. Lúc ấy trong tù có 28 nhà sư từ nhiều nước khác nhau – Hàn Quốc, Miến Điện, Lào, vv… nhưng chỉ có một nhà sư Thái nữa ngoài tôi. Sư đã vào tù trước tôi vài ngày. Hai chúng tôi trở thành bạn. Sư có một ít tiền trong người nhưng không khai báo nên sư bị phạt.
Người cai tù nạt nộ sư rồi phạt sư đứng lên, ngồi xuống, đứng lên, ngồi xuống… Cứ thế nhiều lần. Tôi không chịu nổi. Người ta phạt sư ngay trước mặt tôi. Tôi không nhịn được.
Tôi nói với người cai tù, “Anh dừng lại được không? Làm vậy không tốt. Ông ấy là một vị tăng.”
Người cai tù chỉ mặt tôi. “Không phải việc của mày”.
Máu tôi bốc lên đỉnh đầu. Tôi cởi phăng cái y đang mặc rồi đạp anh ta một cái rất mạnh. Anh ta lộn xuống cầu thang. Anh ta cao to hơn tôi nhưng tôi đạp rất mạnh và anh ta lộn xuống cầu thang. Anh ta đứng dậy, chạy lên cầu thang về phía tôi. Tôi chỉ vào mặt anh ta “Dừng! Nếu không mày chết!” Anh ta đứng lại. Người anh ta run bắn. Anh ta nhìn thẳng mắt tôi; tôi nhìn thẳng anh ta. Anh ta biết tôi không đùa. Thế là anh ta thôi.
Thật sự tôi không giận. Nhưng tôi muốn dậy anh ta một bài học. Nếu không, anh ta sẽ cư xử không tốt với vị sư và những người tù khác. Làm vậy không được.
Sau đấy, họ cũng không phạt tôi. Anh cai tù cũng không làm gì tôi. Sau lần đó, anh ta không bao giờ dám nhìn thẳng mắt tôi nữa. Lúc đó, rất nhiều tù nhân chứng kiến chuyện này và họ đều kêu lên “Ôiiiiiii, hóa ra sư cũng biết song phi thế á?” Họ bảo “Eo ơiiiiiiii, không thể tin được!” (cười). Tôi nói “Xin lỗi, tôi không thể để chuyện như vậy xảy ra trước mặt tôi”.
Còn bây giờ, nếu có chuyện xảy ra trước mặt tôi, có lúc tôi hành động, có lúc không, nhưng không có cảm xúc gì.
Người ta hỏi tôi có còn cảm giác giận dữ không? Có. Thỉnh thoảng vẫn có, nhưng tôi không thọ nó. Rất hiếm khi tôi nổi giận. Thường là không. Nếu giận đến thì chỉ một chút, và tôi cũng không lấy nó.
Thế rồi một đêm trong tù, tôi không ngủ mà ngồi thiền suốt đêm. Sau nửa đêm, tôi nhập định sâu. Toàn thân tôi nổ tung thành vô vàn các hạt vật chất li ti. Tâm tôi chỉ còn là trạng thái nhất tâm. Chuyện này tự xảy ra. Sự bung vỡ. Như một quả bom vậy. Toàn thân tôi biến mất. Nó tán đi khắp vũ trụ. Như vụ nổ Big Bang vậy. Đây là một hiệu ứng của thiền. Sau một lúc thì thân tụ trở lại.
Kinh nghiệm này cho tôi thấy rõ thân chúng ta không thuộc về chúng ta.
Thân chỉ là sự tạm hợp thành của các yếu tố tự nhiên và nó liên tục biến đổi, tiếp diễn. Chỉ là tự nhiên thuần khiết, và trôi chảy theo tự nhiên.
Thân và tâm tách biệt nhau. Hoàn toàn tách biệt. Có điều chúng ta quá quen với việc ở bên trong thân nên ta bám vào cái thân này như “thân của tôi”.
Thật sự thân này không thuộc về ta. Kể cả tâm cũng không thuộc về ta.
Thân và tâm đều thuộc về tự nhiên. Chỉ là các yếu tố tự nhiên hóa hiện, biến dịch, chảy trôi. Một dòng trôi của thiên nhiên, hoàn toàn tự vận hành. Theo quy luật tự nhiên mà thân và tâm kết hợp với nhau. Khi ta vẫn còn hiện hữu thì hãy chăm sóc cho thân và tâm để có thể dùng nó giúp đỡ mọi người. Nhưng chăm sóc mà không dính mắc, không chiều chuộng, say mê thân thể. Ta biết đến một ngày chúng sẽ ra đi.
Niết Bàn thì không là gì cả.
Tâm chỉ là yếu tố biết thuần tịnh. Là cái giác thuần tịnh. Các bậc a-la-hán Niết Bàn trong lúc còn sống, thì tâm họ thanh tịnh và tự do. Còn Niết Bàn sau khi chết thì không là cái gì. Một số nhóm tin rằng các bậc A-la-hán nhập vào Niết Bàn là nhập vào một nơi có đời sống vĩnh cửu. Không phải vậy. Tam Tạng kinh điển không nói vậy. Họ nhập vào cái trống không tuyệt đối. Họ không trở lại nữa. Không gì cả. Có những nhóm cho rằng Niết Bàn vẫn còn có ngã, đại ngã. Họ nghĩ rằng có ai đó sống ở Niết Bàn. Họ nghĩ Niết Bàn là một nơi chốn. Nơi chốn bất tử. Nhưng Đức Phật chưa bao giờ nói vậy. Đức Phật nói “Niết Bàn cũng vô ngã. Mọi pháp đều vô ngã”. Không có một ai. Không có Tôi nào ở Niết Bàn.
Tôi ở tù 4 tháng. Sau đó họ đưa tôi lên Yangon và trục xuất tôi về Thái Lan.
Vàng, ôi con chó nhỏ!
Năm đó, tôi đi bộ
Từ huyện Mai Rood, tỉnh Trad
Tới tỉnh Rayong.
Ở làng Chang Kham tỉnh Chandaburi,
Tôi dừng lại.
Quyết định treo màn muỗi
Ngủ ba đêm trong một khu vườn
Một ngày,
Sau khi nói pháp với vài người
Tôi đi bộ ra ngoài
Rồi ngồi bên cái ao nhỏ
Một Phật tử mời tôi ly nước quả
Và một ít pho mát
Một vị sư ghé đến ngồi cùng
Tôi gọi con Vàng lại gần
Muốn chia cho nó phần pho mát
Vàng đã là một bạn đồng hành tốt
Suốt dọc đường.
Nó nghe tiếng tôi, lại gần
Nhưng không chịu ngồi xuống
“Mày hư quá!”, tôi mắng nó
“Thôi đi đi!”
Nó xịu xuống, bước đi.
Một lúc sau tôi đi tìm Vàng
Với miếng pho mát trong tay
Nó đứng thẫn thờ, rồi ngồi xuống gần bên
Nhưng không động vào pho mát
Vẻ mặt buồn, như vẫn còn thảng thốt
Bởi sự xua đuổi của tôi.
Suốt cả ngày nó bỏ ăn
Ôi, sinh linh nhạy cảm!
Ngay con chó nhỏ cũng cần lời ấm áp
Cần được an ủi, dịu dàng.
Và sự tử tế mỗi ngày.
Người quan sát
Con hãy quan sát bản thân, quan sát hành vi của mình.
Với sự thông thái.
Suy xét kỹ rồi đặt trái tim đúng chỗ.
Kiên định trong mỗi việc làm.
Con sẽ thành công.
Hãy học cảm nhận cơ thể mình.
Quan sát thân này thường xuyên và thấu đáo
Rồi con sẽ đi đến cảm quan hoàn hảo
Về thân.
Về tâm.
Khi thấu tỏ thân tâm, con sẽ tự an nhiên.
Và giác ngộ.
Trong an nhiên đã bao hàm mọi đạo lý.
Thân, khẩu, ý tự hài hòa.
Người biết tự bằng lòng
Người biết tự bằng lòng sẽ nhận ra cái mất
Tiềm ẩn trong những gì mình được
Sẽ thấy hiểm họa trong những gì mình có
Đây là đức hạnh tự thành do buông bỏ
Do xả ly, đặt xuống rất nhiều.
Người không thể thấy trong cái mình được luôn tiềm ẩn tai ương
Trong cái mình sở hữu luôn có mầm hiểm họa
Người đó sẽ đắm chìm trong ảo tưởng rằng mình được, mình có
Sẽ khổ vì của cải vật chất, sự sở hữu triền miên.
Cái gì người có, sẽ mất
Cái gì đã đến, sẽ đi.
Cái gì từng thịnh, sẽ suy.
Cái gì đã sinh, sẽ diệt.
Thân xác người chết có thể được hỏa thiêu, tan biến.
Nhưng tâm họ thì tiếp tục lang thang
Theo nghiệp đã tạo.
Cái biết thực sự
Cái biết tự nó không tốt
Tốt không phải đặc tính của cái biết
Cái biết tự nó không xấu
Xấu không phải đặc tính của cái biết
Cái biết chỉ là cái biết
Nó hoàn toàn thanh tịnh
Không liên quan xấu, tốt
Nó thuần tịnh biết mà thôi.
Tâm biết thuần tịnh sẵn có chánh niệm và trí tuệ rồi
Khi một đối tượng của cái biết xuất hiện
Tâm biết nhận rõ bản chất của đối tượng
Dù đối tượng đó được coi là xấu tốt ra sao
Tâm biết không hề dính mắc
Chỉ trong suốt, mọi thời phẳng lặng
Tâm biết vượt trên tốt xấu nhị nguyên.
Tâm là gì?[9]
Tâm không có thời gian
Thời gian chỉ sinh ra khi tư duy sinh khởi
Tâm không có giới
Tâm không phải là nữ hay nam.
Tâm không già, trẻ, chẳng trung niên.
Tâm không hề cao hay thấp.
Tâm cũng không đen hoặc trắng
Tâm không là bất cứ thứ gì.
Tâm chỉ thuần tịnh là tánh giác nguyên sơ.
Tâm không phải tư tưởng, nghĩ suy, hay cảm xúc
Dù chúng có liên hệ chặt chẽ
Nơi bản tâm nguyên sơ là tự do, hạnh phúc.
Sự thật vạn hữu tự hiển bày.
Tịch lặng
Tịch lặng tràn thân thể tôi
Tỏa lan sóng điện
Tái sinh tế bào thành những hạt nhận biết
Cái thấy tôi sắc nét, trống không,
Tràn vũ trụ.
[9] Tên gốc: Tâm