Tôi xuất gia ngày 17-5-1974 tại làng mà tôi đã sinh ra. Đó là ngày rằm tháng Tư theo lịch âm, cũng là ngày Đức Phật đản sinh, thành đạo, và nhập Niết Bàn. Tôi đã xin sư phụ của tôi cho tôi được xuất gia vào lúc nửa đêm. Sư phụ từ bi đồng ý vì sư phụ biết tôi có thành ý.
Đêm tôi xuất gia, gia đình tôi và vài người bạn có mặt. Mẹ tôi rất vui khi tôi xuất gia nhưng cha tôi thì không được vui. Ông còn chưa tin. Thực ra lúc tôi làm đạo sĩ, ông cũng không tin. Cha tôi nghĩ tôi còn trẻ và chỉ thử cuộc đời tu hành một thời gian rồi sẽ trở lại lấy vợ sinh con. Khi tôi xuất gia, ông vẫn không tin rằng tôi quyết tâm đi con đường này trọn đời. Suốt 5 năm sau khi tôi xuất gia, cha tôi chỉ khẽ gật đầu chào mỗi khi gặp tôi chứ không lễ như phong tục của người Thái với một vị tăng. Năm năm sau khi tôi xuất gia, cha tôi hiểu và lễ tôi lần đầu.
Đêm đó, sư phụ cạo tóc cho tôi và đặt cho tôi pháp danh “Yantra Amaro.” Amaro có nghĩa là bất tử. Nhưng dĩ nhiên là tôi cũng phải chết.
Thường trong truyền thống Thái, một vị mới xuất gia sẽ phải ở cùng thầy ít nhất 5 năm để học hỏi rồi mới được tu tập một mình. Nhưng sau khi xuất gia, tôi không ở chùa. Tôi xin sư phụ cho tôi được hành hạnh đầu đà và tudong (hành cước) một mình. Sư phụ biết tôi đã tự tu hành rất nghiêm khắc trong thời kỳ còn là đạo sĩ nên thầy cho phép tôi đi. Tôi thực sự rất biết ơn sư phụ xuất gia của tôi và tất cả các bậc thầy sau này.
Nói về các bậc thầy thì tôi có nhiều thầy nhưng tôi coi thiền sư Buddhadasa là đạo sư của tôi, là người thầy chính về pháp. Luang Pu Suk là người thầy đầu tiên, thầy sơ tâm. Đó là thầy của bố mẹ tôi và đã dạy tôi từ lúc tôi còn nhỏ. Chính thầy là người đã nhổ một cái răng đưa cho tôi trước khi tôi đi Myanmar. Hôm đó, tôi đến thăm và chào thầy để đi Myanmar. Thầy nói với tôi “Con đừng đi, có thể nguy hiểm.” Nhưng tôi nói tôi không sợ, nguy hiểm tôi cũng đi. Hẳn là thầy biết nghiệp quá khứ của tôi với Myanmar và biết trước tôi sẽ bị vào tù ở Myanmar nên mới ngăn tôi. Hai chúng tôi tiếp tục nói chuyện. Đột nhiên thầy đưa tay lên miệng, lay lay một cái răng rồi nhổ nó ra và đưa cho tôi. “Đây, cầm lấy”. Thầy nói thế. Tôi giữ cái răng đó rất lâu rồi nó tự biến mất.
Tôi gặp sư phụ Buddhadasa lần đầu vào khoảng năm thứ nhất của thời kỳ đạo sĩ. Hình như là năm 1971. Năm đó, tôi đi đến chùa của sư phụ ở miền Nam Thái Lan. Tên chùa là Suan Mok. Trước khi đến gặp sư phụ, tôi có niềm tin tuyệt đối vào sư phụ. Tôi biết sư phụ là một vị chân sư. Là đạo sư của tôi.
Hôm đó tôi đến, đi thẳng vào đảnh lễ sư phụ.
Sư phụ nhìn thẳng tôi.
Tôi nhìn thẳng sư phụ.
Sư phụ biết rõ tận sâu thẳm của tôi.
Biết tâm tôi. Biết suy nghĩ của tôi. Biết tất cả.
Tôi lễ sư phụ ba lễ bằng trọn vẹn thân tâm mình.
Không có gì để giấu và cũng không thể giấu.
Khi tôi đảnh lễ xong, câu đầu tiên sư phụ nói với tôi là, “Đừng chỉ có ngồi. Hãy đi bộ! Đi bộ nhiều nữa vào!”
Thời kỳ đó, tôi đang dính mắc vào ngồi thiền. Tôi dính mắc vào các tầng thiền, các tầng định. Tôi thích ngồi nhập sâu trong các tầng thiền, tầng định. Sư phụ biết. Sư phụ không nói tôi không nên làm. Sư phụ chỉ nói “Hãy đi bộ!”
Ngày hôm đó, tôi chỉ hỏi sư phụ một điều duy nhất: làm thế nào để giải thoát, để giác ngộ hoàn toàn? Không vòng vo, không cần nghi lễ, không cần quy tắc rườm rà. Chỉ pháp với pháp, tâm thẳng tâm. Chúng tôi nói chuyện hơn một tiếng. Thường sư phụ không nói chuyện với ai nhiều hơn 10 phút. Phật tử đến đảnh lễ, sư phụ chỉ chào, chú nguyện cho họ rồi bảo, “Các con đi thăm chùa đi”. Nhưng hôm đó, sư phụ ngồi nói chuyện với tôi hơn một tiếng. Chỉ nói pháp. Lần nào tôi đến cũng vậy. Chúng tôi sẽ ngồi nói pháp hàng tiếng đồng hồ. Tôi bóp chân cho sư phụ trong lúc sư phụ nói. Buddhadasa thực sự là một người thầy vĩ đại.
Rất nhiều người thầy của tôi là đệ tử của đại thiền sư Mun (Ajahn Mun)[5]. Các đệ tử của thiền sư Mun đều rất hiền và có năng lượng rất rõ. Ở gần họ, tôi luôn thấy bình an và hỷ lạc. Mắt ai cũng sáng và trong suốt như thủy tinh, có thể nhìn rõ đồng tử. Tôi nhớ rất rõ một vị thầy này, cũng là một đệ tử của thiền sư Mun. Thầy xuất gia khi đã ngoài 40 tuổi và từng có gia đình. Thầy biết mình không còn trẻ nên thầy tu con đường thẳng nhất tới giác ngộ. Thầy tu hành với một ý chí mãnh liệt. Thầy không học Tam tạng kinh điển nhiều; chỉ hành thiền, hành thiền, hành thiền không ngừng. Nhưng thầy luôn mỉm cười. Khi tôi đến hỏi pháp, thầy luôn trả lời ngắn, thẳng trọng tâm. Tôi hỏi, “Thầy còn cảm giác đau và các cảm xúc không?” Thầy nói, “Có, nhưng ta không thọ chúng.” Rất rõ ràng. “Có, nhưng ta không thọ chúng”. Đơn giản. Thẳng.
Khi đi con đường này, ta phải biết vị thầy nào dạy ta thẳng giải thoát, thẳng Niết Bàn. Tôi học với nhiều vị thầy và tôi kính trọng tất cả họ. Kính trọng là kính trọng. Nhưng tôi phải nghĩ, ai sẽ dạy tôi thẳng giải thoát còn ai nói pháp hay nhưng không có nội lực của sự tu hành? Cái này có thể cảm nhận được. Có những vị thầy rất thông thạo tam tạng kinh điển nhưng không có nội lực tu hành.
Khi tu hành, hãy tu thật với các bậc thầy thật. Tất cả các bậc thầy trên kia (chỉ vào các tranh treo trên tường) – thiền sư Mun, thiền sư Toh, sư phụ Buddhadasa, thiền sư Oẻn – họ đều là các bậc thầy thật. Các bậc thầy thật có thể có phong thái, tính cách khác nhau. Kỹ thuật của họ khác nhau, năng lượng tỏa ra cũng khác nhau nhưng sự giác ngộ là giống nhau. Họ giống như những loại hoa khác nhau. Không thể nói hoa sen đẹp hơn hoa hồng hoặc hoa hồng đẹp hơn hoa tulip. Đều là hoa và đều đẹp. Tôi có nhiều bậc thầy và tôi kính trọng tất cả họ. Bất cứ ai giúp ta thấu pháp, ta có thể học với họ. Không cần phải theo chỉ một thầy. Có thể học từ tất cả. Nhưng đừng dính mắc vào thầy. Thầy cũng không nên dính mắc vào đệ tử.
Giống như Chúa Giê-su và Đức Phật Thích Ca. Họ đều giúp con người chấm dứt khổ nhưng cách họ giúp và dạy thì khác nhau. Chúa Giê-su dạy về Chúa bởi vì ngài biết rất khó dạy con người về vô ngã. Ngài biết sự thật về vô ngã. Ngài đã sang Ấn Độ làm một đạo sĩ và đã tu hành theo đạo Phật trong 13 năm. Ngài cũng đã nhập các tầng thiền, tầng định, đã có các loại thần thông. Tôi nghĩ ngài là một vị Đại Bồ Tát. Nhưng ngài không dạy về vô ngã bởi vì nó quá khó để con người tiếp nhận. Dạy về Chúa thì dễ hơn. Dạy người ta yêu Chúa thì người ta thấy gần gũi và có cảm hứng. Nhưng ngài cũng nói Chúa tạo ra tất cả, Chúa ở trong tất cả và khi ta chết, ta trở lại với Chúa. Bản chất là nói về vô ngã, về Tánh Không bởi vì nó cũng khẳng định không có cái gì thuộc về cá nhân chúng ta. Đấy là cốt tủy của vô ngã, chỉ là dùng ngôn từ khác, gọi là Chúa. Nói thế người ta thấy dễ hiểu hơn, dễ cảm nhận hơn, và dễ làm theo.
Trong kinh nghiệm tu hành của tôi, tam tạng kinh điển không quan trọng.
Không cần phải biết tất cả kinh điển.
Chỉ cần biết cốt tủy những lời dạy của đức Phật.
Chỉ cần biết Kinh Kim Cương cũng đã đủ.
Thật ra Kinh Kim Cương là truyền thống Đại thừa. Thái Lan theo truyền thống Tiểu thừa. Nhưng tôi không quan trọng Tiểu thừa hay Đại thừa. Kinh Kim Cương giúp tôi thấy sự thật nên tôi nghiền ngẫm Kinh Kim Cương rất nhiều.
Còn nếu tôi có điều gì cụ thể cần hỏi về hành thiền, tôi sẽ đến hỏi sư phụ Buddhadasa.
Khi tôi ở cùng một vị thầy, tôi chỉ đến gặp thầy khi tôi bị tắc về vấn đề gì đó. Nếu không tắc, tôi cứ tự thực hành. Cũng có khi tôi có câu hỏi nhưng chỉ hỏi trong tâm. Năm nào tôi cũng đến đảnh lễ thiền sư Kubapumachak để hỏi về hành thiền. Thầy là người tu đốn ngộ. Thẳng giải thoát. Thầy không muốn luân hồi trở lại nữa. Mệt lắm, thầy nói với tôi. “Quay lại nữa mệt lắm.”
“Quá nhiều việc, quá nhiều việc,” thầy nói thế.

Cốt tủy của Pháp
Cốt tủy của Pháp
Là xả ly vật chất bên ngoài
Và xả ly cảm xúc, cảm thọ bên trong.
Để xả ly bên trong có khi không dễ
Vì xả ly bên trong tức là cần buông bỏ
Mọi tham lam, sân hận, thù hằn.
Buông bỏ cả luyến ái, si mê, khát thèm.
Cả sợ hãi, hoang mang, lo lắng.
Nhưng hạnh phúc trong đời đích thực
Chỉ đến từ xả ly.
Xả ly không có nghĩa là tảng lờ
Những bổn phận một người cần thực hiện.
Cũng không có nghĩa là chạy trốn sự thật.
Tách mình ra khỏi mọi người.
Xả ly không phải là chống đối cuộc đời.
Đức Phật dạy ta đối diện thế giới.
Đức Phật không hề dạy ta chạy trốn thế gian.
Nếu một người có thể xả ly những gì mình mê say,
Tâm người đó sẽ vững.
Đa phần người bình thường luôn muốn có thêm những gì mình yêu thích
Dù là vật chất, cảm xúc, hay con người.
Nên họ rất khó xả ly.
Họ quá yêu, quá si mê những gì mình có.
Này con,
Nếu con có thể buông, không dính mắc
Những gì con vốn yêu thích, mê say.
Trái tim con sẽ không còn là trái tim phàm trần.
Đó là trái tim bậc thánh.
Thánh phàm khác biệt
Người thế tục:
Có chánh niệm trì trệ và thô tháo
Nên thường bị phiền não xâm nhập, quấy nhiễu, phủ trùm.
Bậc thánh:
Có chánh niệm mọi thời, thấu suốt, và tự nhiên
Nên phiền não không thể xâm nhập, quấy rầy, bao phủ.
Người thế tục:
Ăn rồi thèm; yêu thích rồi tham muốn
Sử dụng rồi dính mắc; nghĩ rồi tính toan
Thế nên họ luôn luôn lo phiền, chộn rộn.
Bậc thánh:
Ăn nhưng không thèm; yêu thương mà không tham muốn.
Sử dụng mà không dính mắc; nghĩ mà không tính toan.
Thế nên bậc thánh không lo phiền.
Họ thảnh thơi, an lạc.
Dẫu vậy, người thế tục nào cũng mang mầm thánh.
Thấu Pháp
Gặp được một vị tăng
Được nghe tăng nói pháp
Đó là ân phước lớn
Nhưng không thể sánh bằng
Chính mình thành vị tăng
Mang phước cho tất cả
Gặp được một bậc thánh
Được bậc thánh dậy khuyên
Những lời bậc thánh hiền
Là nguồn ân phước lớn
Nhưng cũng không so được
Với việc chính chân mình
Tự bước trên đường thánh
Pháp mình tự nhận lãnh
Pháp mình tự làm theo
Tâm mình hóa pháp màu
Đó mới là thấu pháp
Người nào chỉ mang vác
Những lời pháp bên ngoài
Vẫn chìm đắm thế gian
Thì vẫn chưa thấu pháp.
Lá thư thứ hai gửi những người bạn trong Pháp
Một trái tim không ràng buộc
Cũng giống bầu trời sau mưa
Sạch, mát, trong.
Sự buộc ràng giống mây và khói bụi.
Mưa giống như năm loại lực:
Niềm tin, tinh tấn, chánh niệm, định, và tuệ.
Gột mọi buộc ràng
Mang đến bình an.
Giúp cuộc đời sinh sôi, rộng mở.
Này bạn ơi,
Khi có cơ hội, đừng phớt lờ mà không làm điều thiện.
Cũng đừng đợi cơ hội đến với mình.
Thay vì thế, hãy tạo ra cơ hội.
Tôi chỉ có thể nguyện
Tôi chỉ có thể nguyện
Dòng từ bi vô lượng
Chảy sâu vào mỗi trái tim
Từng con người, từng sinh linh
Nguyện mọi linh hồn được tắm gội
Được thấm đẫm tình yêu thương vô tận.
Nguyện cho tất cả nhận ra
Chúng ta là thân quyến một nhà
Cùng khổ bởi sinh, già, bệnh, chết.
Nguyện mọi tâm hồn an vui, tỏa sáng,
Nguyện cho toàn thế giới hoà bình.
Nguyện tình thương ngự trị khắp hành tinh.
[5] Thiền sư Mun (1870-1949) là một thiền sư lỗi lạc trong Phật giáo Thái Lan. Thiền sư được coi là người đã cùng với thiền sư Sao tạo lập phái thiền trong rừng (forest tradition). Thiền sư có nhiều đệ tử đắc pháp lỗi lạc, điển hình và được biết đến nhiều trên thế giới là thiền sư Chah (Ajahn Chah).